Ngày 3 tháng 12 năm 1992, chúng tôi vào đến Saigon. Gia sản mang theo là một rương đựng đầy bát đĩa. Quan niệm của tôi, đồ ăn thì mua ở đâu cũng được, còn bát đĩa, thì dứt khoát phải chọn lọc, phải đẹp. Bà Nội dậy từ bé, nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, đi đâu nhìn mâm bát vỡ, cũ, nhếch nhác là tôi đã chẳng muốn ăn. May cho chúng tôi là nhà có điều kiện chút chút. Vợ chồng cô em gái mang từ DDR về mấy container hàng hóa, trong đó nhiều bát đĩa đẹp lắm. Khi đi Miền Nam, tôi chả lấy cái gì, chỉ chọn mang theo một loạt bát to đĩa lớn và cái mâm nhôm. Cái mâm nhôm chị Ngọc tôi, khi đi Miền Nam để lại cùng cây bút máy Kim Tinh cũ. Tôi cũng nhất quyết lấy cái rương gỗ lim mỏng dính, cái rương Bà Nội mang từ Hải Phòng lên Hà Nội, nay tôi lại mang vào Sài gòn lập nghiệp. Cái mâm nhôm và Cái rương đó là đồ gia bảo làm giống cho mọi tài sản của chúng tôi sau này.
Thầm nhủ, Nhà có cỗ, là phải bày trên bát đĩa đẹp đẽ, không tạm bợ được. Gia đình mình rồi sẽ nhiều thành viên lắm, đông con, lắm khách là chắc chắn. Tính hiếu khách có từ trong máu của dòng họ. Nhà tôi ở Hà Nội, như trạm giao liên, lúc nào cũng đầy khách. Thời bao cấp, nhà nghèo nhưng bao giờ cũng có cơm nguội. Các chú nhân viên trong cơ quan bố tôi, cứ nhỡ bữa là ra nhà ông anh, chỉ cần lục chạn vét cơm nguội, chan thêm tý mắm hạng bét đồng mốt là đủ một bụng no. Hay họ hàng ở quê ra, nhà tôi bao giờ cũng là địa điểm thân thuộc nhất, cứ đến nhà hai bác là có chỗ ngủ, có cơm ăn. Tôi chắc, nhà ta rồi cũng vậy, nghèo gì thì nghèo chứ không thể nghèo tình, nghèo nghĩa.
Vào đến Saigon, tôi thuê xế lô chở rương gỗ gia bảo đạp thẳng đến Bệnh viện, đăng ký nhà khách và chờ phân chỗ ở. Gặp chú Tư, chú mừng lắm khi thấy hai vợ chồng cùng đi. Chú nói, hai đứa bay cùng đi thì chắc đã quyết tâm ở lại, chứ chồng Nam, vợ Bắc thì mấy hôm thằng này nó chuồn mất, hỏng hết việc. Cô chú mời hai đứa qua nhà ăn cơm. Cô chú ở đường Nguyễn Văn Thủ, trong khu chung cư có mấy gia đình chung nhau. Cô chú ở trên gác, tầng hai, lầu một, tùy theo cách gọi Nam Bắc khác nhau, chứ cũng chỉ là trên gác thôi.
Thím Cuộc nhìn thấy vợ tôi cứ ôm vào lòng vuốt ve và than, nó trẻ thế này đã đi xa nhà rồi, có còn chiến tranh nữa đâu mà bắt vợ con khổ, hả ông bộ đội Thắng. Cô chú coi vợ chồng tôi như con từ ngày đấy.
Kể cũng tệ, tôi có tính rất khó chịu, chỉ gọi Cha tôi là Bố chứ dứt khoát không bao giờ nhận ai là bố nuôi, cha đỡ đầu đỡ đuôi nào cả. Cái tính dở đó cũng dở thật, tự đẩy xa khoảng cách giữa các đối tác; nhiều khi tôi mất cơ hội được nâng đỡ, thân lập thân, nhọc nhọc là.
Ở nhà khách mấy hôm, chú Tư nói anh trợ lý cán bộ thu xếp cho hai đứa ở khu nhà của bộ đội biên phòng cũ. Nhà trên gác ba, sát mái, nóng bằng chết nhưng được hai phòng, độ 16 mét vuông một phòng. Thằng bạn cùng nhập ngũ bảo, mày được ưu tiên đấy, chúng tao chỉ được một phòng. Mà hai phòng này thông ra mái bằng tầng dưới, tha hồ đặt chum dự trữ nước, mày chịu khó mà xách, chứ đếu có nước đâu, nhà tập thể, điện nước tồi lắm.
Của đáng tội, lúc đó khu tập thể cha chung không ai kiểm soát, điện đóm ăn cắp tùm lum, đã yếu lại thất thoát nhiều. Đêm đến cái quạt điện chạy lờ đờ như ông già nghiện nặng hết hơi. Tôi nghĩ, lấy tay đẩy còn nhanh ra gió hơn. Đèn thì đỏ đòng đọc như hai cái mắt trâu điên, đọc sách chả nổi, ấy thế mà nhà nào cũng chơi bếp điên may xo để đun nấu. Lại thêm mấy cái tàu ngầm nguyên tử, dùng hai mảnh ống bơ sữa bò buộc cặp lại, nối với hai sợi dây điện để đun nước. Mỗi lần cắm là sụt thế, tiếng chửi vang ầm khắp ngõ.
Ở đó một dạo, chú Tư qua thăm, thấy hai đứa phờ phạc, chú bảo, không ổn rồi, dọn vào khu nhà tôn trong viện, ở tầng thấp, điện nước tốt hơn.
Chúng tôi chuyển vào trong khu nhà tôn, có hàng cây đại cổ thụ ở. Vào đó, gặp lại các bạn, anh chị cùng ở Viện 103, mừng hết sức, thấy như về nhà.
Hai vợ chồng ở một căn, rộng độ 18 mét vuông, nhưng có hai cửa, trước nhà có sân, sau có vũng nước trâu đầm, mà mấy thằng giặc gọi là hồ nước cho sang, chứ chẳng đủ để thả mấy cọng rau muống.
Mấy tháng sau, Bố tôi vào Saigon. Ông bảo, mày nóng tính, tao vào Saigon kìm chế lại, chứ không mày giết con dâu tao à. Giết thế nào được, Bố cứ nói thế. Bộ đội quân y, lương y kiêm thổ phỉ, suốt ngày đêm đi trực vàng lõ mắt, lấy được vợ là may lắm rồi. Yêu thương chẳng hết, ai lại đánh, đánh đến chết bao giờ.
Tôi đưa Bố lên chào chú Tư, chú là Bộ đội đánh Mỹ, Bố tôi là Bộ đội đánh Pháp, dễ nói chuyện. Hai ông bộ đội rủ rỉ rù rì sao đó mà chiều hôm ấy, có lệnh mở cửa gian nhà khách ở giữa khu gia binh, lính nghĩa vụ dọn dẹp sạch sẽ và ngăn làm hai, mỗi gian độ 25 – 26 mét vuông. Dân tình bảo, bỏ phòng khách, chắc là để cấp cho ai đấy mà.
Một căn thì dành cho vợ chồng anh chị Ngọ Nghĩa, trung tá tiến sỹ, chủ nhiệm khoa. Chức tước to nhất đám, công bằng thôi.
Căn kia, một chị con ông tướng to lắm, tồ tồ dọn vào ở. Được buổi sáng thì buổi chiều chú Tư mắng cho một trận, mày thiếu gì nhà, vào ở tập thể ăn vạ chờ chia đất, về lại nhà cũ ngay.
Chú Tư mời Bố tôi và hai con sang căn nhà đó ở.
Khổ, căn nhà đó lát gạch hoa Đời Tân, trong khi các căn khác thì láng xi măng cũ, bẩn và ẩm kinh khủng. Căn đó có thể lắp quạt trần, rộng gấp rưỡi các căn khác. Lau sạch nền nhà là có thể lăn ra ngủ bất cứ lúc nào, chứ đi trực đêm về, nằm nhà tôn, nóng lắm. Anh em vạ vật đến khổ.
Bố tôi chịu khó lắm, ông xin gỗ thùng thừa của Nhà Trà Tiến Đạt về đóng khung, xin các tông, ván ép về để làm vỏ. Ông đóng được cái chạn để đựng đũa bát, đóng được cái tủ để xếp quần áo.
Ông cuốc mảnh đất ven đường, dẫn nước vào, làm ruộng rau muống, rau đay, có cây mùng tơi bám dậu. Đám rau muống đó, cả xóm ăn không hết, các chị y tá cũng xuống tranh thủ hái rau, bố tôi dễ tính, thương người nên cho hết.
Hôm Bố tôi mất, chị Y tá cũ vừa nói vừa khóc, lần ấy, chị hái trộm rau muống, thấy ông ra, chị sợ quá chậy bỏ cả xe đạp. Ông bảo, con ơi, đừng chậy, ngã. Mà hái đằng này, rau non dễ ăn chứ hái đằng kia, rau già lắm. Chị vừa hái vừa chẩy nước mắt, Thắng ạ…
Nhờ chú Tư, Tôi có Nhà riêng. Từ bé đến nhớn, tôi có căn nhà ở riêng, là căn nhà đó, hạnh phúc lắm.
Ngôi nhà đó, bạn bè tôi toàn sang chơi với ông, chúng nó đều coi ông như Bố đẻ, có gì là mang sang mơi ông. Ông ăn thì ít, chúng ăn thì nhiều, uống tưng bừng, chém gió tưng bừng. Ông chỉ cười cười và thương đàn con tha hương thiếu tình cảm.
Bọn trẻ con cởi trần cởi truồng trong khu giờ có ông, thích lắm. Chúng sang nhà, nằm lăn ra đất, nghịch chán là lăn ra ngủ. Có ông bật quạt và chăm chúng, ông chăm như cháu nội của mình. Không biết giờ này chúng có còn nhớ ông già hay cười, tóc bạc lại hay hát ru chúng ngủ không, chứ ông giờ đã về quê đoàn tụ với Cha mẹ, với vợ tận Kiến An Hải Phòng mất rồi.
Chú Minh Tư, là Người đưa tôi vào Miền Nam, cấp nhà, cấp đất cho tôi ở.
Chú như người Cha đỡ cho cuộc sống sau này của tôi hết lòng.
Viết đến đây, nhớ chú quá.
Tết sắp đến, Vợ chồng con lại sang thắp hương. Sống Tết, chết Giỗ, truyền thống Dân Ta nó vậy mà.
Chú Tư ơi!
16/1/2018
Bác sỹ Phạm Ngọc Thắng.