MỘT NGƯỜI THẦY
Thầy giáo của chúng tôi, GSTS Bùi Xuân Tám đã tạ thế và sáng ngày 8/1/2018 Thầy đã về với Tiên tổ.
Thầy sinh năm 1930, quê gốc ở làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay là Thủ đô Hà Nội, Việt Nam).
Thầy được sinh ra trong một gia đình tài hoa và giỏi giang bậc nhất, anh ruột thầy là Cố Danh họa Bùi Xuân Phái.
Thầy Tám là một trong những Tiền bối xây dựng lên Ngành Lao và Bệnh Phổi của Quân đội cũng như Ngành Lao và Bệnh Phổi Việt Nam.
Tham gia xây dựng Khoa Lao phổi Viện Quân y 103 ngay từ năm 1959, Thầy là Chủ nhiệm khoa thay Thầy Lê Ngọc Mô từ 1964 và gắn bó với ngành đến những năm cuối của đời khoa học. Dù trên bất cứ cương vị nào, Thầy cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trực tiếp và chỉ đạo chữa bệnh, dậy học, nghiên cứu khoa học, hướng dẫn nghiên cứu sinh. Bao lớp học trò của Thầy đã, đang và sẽ làm rạng danh sự nghiệp chữa bệnh và dậy học mà Thầy đã truyền lại.
Với tôi, một học trò nhỏ, Thầy có nhiều kỷ niệm.
Khi còn học đại học, chúng tôi được học bài Ung thư Phổi, Thầy đang đứng trên bục giảng chợt im lặng một lúc lâu. Rồi Thầy rụt rè hỏi: Có trò nào mang diêm, cho Thầy châm điếu thuốc. Cả lớp lặng ngắt, anh lớp trưởng rụt rè mang diêm cho Thầy châm thuốc. Được mấy hơi, Thầy giảng tiếp: Phần lớn người mắc bệnh Ung thư phổi có liên quan đến tật hút thuốc lá.
Lớp học càng im lặng hơn. Biết thế nào được, Thầy nghiện thuốc lá lắm. Mỗi khi Thầy điểm bệnh hay giảng bài cho các lớp sau đại học, học trò thường chuẩn bị cho Thầy thuốc lá. Cùng với GS Nguyễn Ngọc Doãn, Thầy Tám là người mỗi ngày hình như chỉ châm thuốc lá một lần. Mỗi lần hút từ sáng đến lúc đi ngủ, ngón tay Thày vàng ươm. Thầy hút từ Ba số 5 đến Du lịch, và cuối cùng là Thuốc lá cuộn.
Hơn ai hết, Thầy biết tác hại của Thuốc lá và đành chịu.
Khi tôi là Học viên Nội trú, nguyên tắc không được dự giờ giảng của các anh chị học các lớp Sau Đại học, nhưng tôi toàn trốn vào cuối lớp học lén, học trộm, chỉ mong được nghe Thầy dậy. Thầy đuổi mấy lần, tôi sợ lắm nhưng vẫn cố học lỏm. Các anh chị lớn bày cho tôi, em mua một bao thuốc lá, pha ấm chè trước khi Thầy vào lớp, để trên bàn giáo viên.
Sau khi Học viên chào, anh lớp trưởng bảo, Thắng mang diêm cho Thầy. Tôi dụt rè mang bao diêm lên, Thầy lơ đãng cầm lấy và châm thuốc, rồi mắng. Lại cậu này, tôi đã bảo không được học cơ mà. Chữ A chữ B chưa giỏi, học kiến thức sâu quá dễ lệch lạc, hỏng mất!
Nhưng rồi Thầy bảo, chỉ được nghe, không được hỏi. Việc hỏi là của các anh, các chị, các cậu còn bé, hỏi vớ vẩn, hỏng hết cả giờ giảng.
Mỗi lần giảng, Thầy như nhập đồng, say mê, kỹ lưỡng, cẩn thận từng câu, từng chữ. Mà Thầy giảng vo, không cầm giấy bao giờ. Những kiến thức Thánh hiền cứ tuần tự tuôn ra hết sức chặt chẽ, đầy đủ, khoa học. Những Người Thầy khả kính của chúng tôi, đều như thế. Hết lòng vì người bệnh, hết lòng vì học sinh thân yêu.
Thầy Tám giỏi kiệt xuất. Thầy viết Giáo trình Bệnh học Hô hấp bốn tập, in roneo, giấy đen sì, bìa đỏ, dày cộp. Chúng tôi thuộc từng chữ, và khi đi lâm sàng chỉ đối chiếu, bệnh này ở trang này, triệu chứng kia ở trang kia mà thôi. Mọi chữ, Thầy dậy hết trong sách rồi.
Thầy Tám đọc phim Xquang phổi thì thần kỳ. Thầy chỉ cho chúng tôi từng vân phổi, từng nhánh phế quản, từng nét tròn méo góc sườn hoành. Thầy dậy từng triệu chứng của bệnh phổi, bệnh phế quản, bệnh tim làm xấu tình trạng phổi, bệnh di căn lên phổi. Giờ đây, có CT – Scanner, có các phương pháp chẩn đoán hiện đại, nhưng ai mà giỏi đọc phim phổi thường thì vẫn là anh hào kiệt xuất.
Ngày tốt nghiệp, Thầy Tám là Chủ tịch Hội đồng thi, Thầy cũng là Chủ tịch bàn thi của chúng tôi. Sau khi thầy trò vấn đáp gần hết buổi sáng, trước 12 Thầy cô đầu ngành, Thầy bảo: Khóa Nội trú này được rồi đấy, anh Thắng chín điểm. Các anh chị cho bao nhiêu con mười thì tôi cộng lại chia ra cũng chỉ chín điểm. Không cho mười, cho điểm cao quá, các cô, các cậu ấy chủ quan, hỏng mất.
Đến tận chân tơ kẽ tóc, các Thầy cô chúng tôi cũng săm soi cho hết sạch tỳ vết. Cũng mong các con thành người mười phân vẹn mười.
Thầy Cô đúng là Người Sinh ra bác sỹ Thắng, còn Cha Mẹ tôi chỉ sinh ra con trai mà thôi.
Khi đã được hân hạnh làm việc tại Quân y viên 103 mà Thầy làm Giám đốc, không bao giờ tôi quên hình ảnh người Thầy cao, gày, lộc cộc vừa đi vừa đọc báo. Đọc báo mê mải đến độ đâm vào cột điện, thầy ngẩng đầu nhìn cột điện rồi lại đi tiếp.
Cuộc đời Thầy theo kháng chiến, đỗ bác sỹ, làm Chủ nhiệm khoa Lao ở Quân y viện 103 từ năm 1957-1979, Chủ nhiệm bộ môn Nội chung và bộ môn Phổi – Học viện quân y. Được phong hàm Phó Giáo sư năm 1980, 1991 được phong hàm Giáo sư – tiến sỹ y học, Viện trưởng, viện phó Viện quân y 103 (1982-1989).
Các phần thưởng đã được nhận: Thấy thuốc ưu tú (1989); Thầy thuốc nhân dân (1995); Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ (2000); Huân chương Kháng chiến hạng nhất; Huân chương Quân công hạng ba, Huân chương Chiến thắng hạng ba, Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhất nhì ba, và nhiều Huy chương, nhiều bằng khen khác.
Đã hướng dẫn cho 35 luận án tiến sỹ, 30 luận văn thạc sỹ.
Đã công bố đăng in 120 công trình nghiên cứu khoa học, có 15 đầu sách đã xuất bản, tham dự nhiều cuộc hội thảo khoa học trên thế giới, là thành viên tham gia biên soạn cuốn Từ điển bách khoa y học
Những học trò xuất sắc của Thầy có thể kể đến: PGSTS Đinh Ngọc Sỹ, nguyên Giám đốc Bệnh viện Phổi trung ương; PGSTS Nguyễn Xuân Triều; PGSTS Đồng Khắc Hưng, nguyên phó GĐ Học viện Quân y; PGSTS Nguyễn Đình Tiến Chủ nhiệm Khoa Lao và Bệnh phổi Bệnh viện trung ương Quân đội 108. PGSTS Nguyễn Huy Lực, chủ nhiệm Bộ môn Lao và Bệnh Phổi Học viện Quân y.
Khi vào Miền Nam, tôi đến chào Thầy cùng một người bạn, và mong Thầy quý con thì cũng quý bạn ấy. Thầy đã dậy được một người học trò giỏi: GSTS Đỗ Quyết, Giám đốc Học viện Quân y ngày nay, người kế tục rất giỏi của Thầy.
Vĩnh biệt Thầy, Con viết những con chữ mang ơn các Thầy Cô nhiều lắm.
8/1/2018.
Bác sỹ Phạm Ngọc Thắng.